Investment knowledge 07.09.2023
Chu kỳ kinh tế là gì? Các giai đoạn của chu kỳ kinh tế (P1)
1. Chu kỳ kinh tế là gì?
Chu kỳ kinh tế (Economic Cycle) còn được gọi là chu kỳ kinh doanh (Business Cycle), là trạng thái biến động lên xuống có tính lặp lại theo thời gian của nền kinh tế. Nhiều dữ liệu kinh tế như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), lãi suất, số liệu thất nghiệp, chi tiêu cá nhân, doanh số bán lẻ cũng như sản xuất công nghiệp có thể giúp xác định giai đoạn hiện tại của một chu kỳ kinh tế, không có chỉ tiêu nào quan trọng hơn chỉ tiêu nào. Các giai đoạn chính bao gồm là suy thoái, đáy, phục hồi và đạt đỉnh hưng thịnh.
Một nền kinh tế không thể luôn hưng thịnh hoặc luôn suy thoái, mà sẽ hoạt động theo chu kỳ. Ví dụ khi nền kinh tế tăng trưởng phát triển, doanh nghiệp tăng lương cho nhân viên. Lúc này, người lao động có nhiều tiền để chi tiêu, kéo theo sự tăng trưởng của sản xuất hàng hóa để đáp ứng nhu cầu. Điều này sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển mở rộng quy mô, tạo nên sự cạnh tranh giữa các công ty trên thị trường. Hậu quả dẫn đến sẽ là sản xuất hàng hóa dư thừa, bắt buộc doanh nghiệp cần giảm giá để kích cầu tiêu dùng. Hệ lụy là lợi nhuận kinh doanh giảm, các công ty cắt giảm lương, cắt giảm lao động và cuối cùng là suy thoái kinh tế.
2. Các giai đoạn của chu kỳ kinh tế
Một chu kỳ kinh tế bao gồm 4 giai đoạn bắt đầu bằng giai đoạn suy thoái, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng cụ thể như sau:
Giai đoạn suy thoái (Recession):
a. Tăng trưởng kinh tế suy giảm
Tăng trưởng kinh tế suy giảm là một trong những dấu hiệu cho thấy giai đoạn suy thoái có thể sẽ xảy ra. Khi kinh tế tăng trưởng giảm, nền kinh tế không đủ mạnh để duy trì sự phát triển bền vững dẫn đến giảm sút hoặc ngừng tăng trưởng. Một số nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế giảm có thể bao gồm:
- Doanh nghiệp thiếu hụt vốn đầu tư vào việc nâng cao sản xuất và mở rộng kinh doanh, thì tăng trưởng sẽ bị giảm.
- Thay đổi trong thị trường lao động ví dụ như tăng lương tối thiểu hay số lượng lao động giảm, chi phí lao động tăng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và làm giảm tăng trưởng.
- Thị trường xuất khẩu gặp khó khăn nếu đối tác xuất khẩu chính của quốc gia đó giảm đầu tư hoặc giảm nhu cầu mua hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng. Điều này gây ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.
- Chi tiêu cá nhân suy giảm, người dân sẽ có khuynh hướng tiết kiệm. Điều này tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp bán lẻ và các ngành công nghiệp liên quan khác do đó tăng trưởng kinh tế cũng sẽ suy giảm.
b. Hoạt động sản xuất và tiêu dùng giảm
Hoạt động sản xuất và tiêu dùng là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái kinh tế, tăng trưởng kinh tế giảm sẽ dẫn đến giảm sản xuất và tiêu dùng, doanh số bán hàng giảm. Doanh nghiệp sẽ bị giảm doanh thu và lợi nhuận, sản lượng và tiêu thụ các sản phẩm cũng giảm dẫn đến tình trạng thừa hàng hoá và giảm giá cả.
- Tỷ lệ thất nghiệp tăng: Doanh nghiệp khi bị giảm doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm số lượng lao động để cắt giảm chi phí. Điều này dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng, thu nhập của người lao động giảm do đó tiêu dùng và sản xuất sẽ giảm theo.
- Giảm đầu tư: Khi sản xuất giảm, các doanh nghiệp cũng sẽ giảm đầu tư để cắt giảm chi phí. Điều này dẫn đến giảm hoạt động đầu tư và các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
- Giảm giá cả: Tình trạng dư thừa hàng hóa và chi tiêu cá nhân giảm kéo dài, các doanh nghiệp sẽ phải giảm giá để kích cầu tiêu thụ. Điều này làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến giảm các cắt giảm chi phí và các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
c. Lãi suất tăng
Một trong những dấu hiệu của giai đoạn suy thoái là lãi suất tăng. Khi nền kinh tế đang phát triển, ngân hàng tăng cường cho vay để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng cầu vay và giảm lãi suất. Tuy nhiên, khi kinh tế suy thoái, ngân hàng sẽ giảm cung tiền để giảm lạm phát dẫn đến tăng lãi suất. Lãi suất tăng sẽ làm giảm sức mua của người tiêu dùng và doanh nghiệp. Gây ảnh hưởng đến việc tiêu thụ và sản xuất hàng hóa và dịch vụ, góp phần làm giảm tăng trưởng kinh tế.
d. Thị trường chứng khoán lao dốc
Thị trường chứng khoán lao dốc cũng là một trong những dấu hiệu của giai đoạn suy thoái kinh tế. Khi kinh tế đang phát triển, thị trường chứng khoán thường tăng giá và thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi kinh tế suy thoái, giá cổ phiếu và các chứng khoán có thể giảm mạnh. Do sự giảm sức mua của các nhà đầu tư, điều này có thể dẫn đến rủi ro tài chính cho các doanh nghiệp, tăng nguy cơ phá sản và giảm khả năng đầu tư của họ. Khi thị trường chứng khoán giảm mạnh, các nhà đầu tư cũng sẽ có xu hướng rút tiền ra khỏi thị trường. Và làm giảm lượng vốn đầu tư và ảnh hưởng đến tình hình kinh tế.
Ví dụ: Một trong những cuộc suy thoái kinh tế lớn nhất trong nhiều thập kỷ qua thường được nhắc tới chính là cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008. Suy thoái bắt đầu tại Mỹ và nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới. Gây ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế như chứng khoán, bất động sản, ngân hàng, sản xuất và tiêu dùng. Cuộc khủng hoảng này đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu với hơn 10.000 tỷ USD đã bị cuốn trôi, hơn 30 triệu người thất nghiệp, gia tăng tỉ lệ vô gia cư
Giai đoạn đáy chu kỳ (Trough):
Trong giai đoạn đáy, các hoạt động kinh tế của một quốc gia giảm xuống dưới mức bình thường, tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế trở nên tiêu cực. Ngoài ra, trong giai đoạn này, thu nhập và chi tiêu cũng giảm mạnh.
Bên cạnh đó, con nợ trở nên khó khăn trong việc trả hết nợ. Kết quả là, lãi suất giảm. Do đó, các ngân hàng thường từ chối cho vay tiền. Cũng vì thế mà họ phải đối mặt với tình trạng tăng số dư tiền mặt. Ngoài ra, mức sản lượng kinh tế của một quốc gia cũng thấp và tỷ lệ thất nghiệp trở nên cao.
Tại giai đoạn này, nền kinh tế chạm đáy và chính phủ bắt buộc phải đưa ra các biện pháp hỗ trợ nền kinh tế, có thể giảm lãi suất để hỗ trợ các doanh nghiệp. Nguồn tiền được bơm vào nền kinh tế giúp cho người tiêu dùng và doanh nghiệp có thể tăng chi tiêu.
Ví dụ: Giai đoạn đáy của cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008 sau khi thị trường nhà đất sụp đổ có thể là thời điểm ngân hàng đầu tư lớn nhất phố Wall - Bear Stearms bị JPMorgan Chase mua lại với giá 30 tỷ USD, tháng 8 2008 ngân hàng đầu tư 160 năm tuổi - Lehman Brothers tuyên bố phá sản. Tháng 9 2008, chính phủ Mỹ thông qua Đạo luật Ổn định Kinh tế Khẩn cấp 2008 cho phép bộ trưởng Tài chính Mỹ chi tới 700 tỷ USD cứu nền tài chính bằng cách mua lại các khoản nợ xấu của ngân hàng, đặc biệt là các chứng khoán đảm bảo bằng bất động sản.
Thông qua bài viết trên, nhà đầu tư đã hiểu phần nào về khái niệm chu kỳ kinh tế cũng như giai đoạn suy thoái và giai đoạn đáy chu kỳ. Và ở bài viết tiếp theo, nhà đầu tư sẽ được hiểu rõ hơn về những giai đoạn còn lại cũng như là chu kỳ kinh tế ở Việt Nam để từ đó đưa ra những quyết định đầu tư sáng suốt.
Ngoài ra, nếu bạn là một nhà đầu tư mới cần tìm hiểu về cách đầu tư chứng khoán, hãy truy cập ngay website “MASTER ACADEMY - HỌC CÙNG MAS, TRỞ THÀNH MASTER” để tham gia các khóa học từ cơ bản đến nâng cao nhằm nâng cao kiến thức đầu tư và kinh nghiệm thực tế từ các chuyên gia của CTCK Mirae Asset.”
Để mở tài khoản chứng khoán, truy cập: MỞ TÀI KHOẢN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI MIRAE ASSET ONLINE
Chúc bạn thành công!